Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật.
Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản.
Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...
Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tuy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Các cách thiền này được gọi là Như Lai Thiền.
Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
====
Thiền Tứ niệm xứ (Thiền Vipassana hay Nội quán, Minh sát tuệ) là dòng thiền cổ xưa nhất của Phật giáo. Pháp hành này lấy thân, thọ, tâm, pháp làm đối tượng quán chiếu. Hành giả nhận ra tất cả những cảm thọ và chuyển động trên thân cũng như tâm, giữ tâm quân bình và tỉnh thức để đoạn trừ tham, sân, si, đạt đến giải thoát.
Từ những thăng trầm của Phật giáo tại đất Ấn, dòng thiền này đã được truyền bá sang nhiều quốc gia lân cận, trong đó Myanmar được xem là nơi gìn giữ pháp tu này một cách cẩn mật nhất với những vị thiền sư nhiều đời tiếp nối. Trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam đang khởi phát nhiều pháp thiền, trong đó có Vipassana.
=======
Nếu ở TP Hồ Chí Minh bạn có thể liên lạc:
Tỳ kheo ni THÍCH NỮ KIẾN LIÊN.
Tịnh xá Ngọc Thành, 37/12 đường 41, Khu phố 6, P. Linh Đông, Q. Thủ Đức, TP. HCM. (ĐT: 9374079 - 8960664)
Tịnh xá Ngọc Thành thường xuyên mở các khóa tu Thiền Vipassana cho các chư vị tăng, ni, và phật tử.
Tứ niệm xứ (zh. 四念處, sa. smṛtyupasthāna; P: satipaṭṭhāna), là bốn phép quán cơ bản về sự tỉnh giác. Phương pháp thiền quán của Phật giáo nguyên thuỷ gồm quán thân sa., pi. kāya, quán thụ (sa., pi. vedanā), quán tâm (sa., pi. citta) và các pháp (tức là những ý nghĩ, khái niệm, gom lại là tâm pháp).
Phương pháp quán chiếu này được nói rõ trong kinh Tứ niệm xứ (pi satipaṭṭhāna-sutta) và Phật từng nói rằng, pháp này có thể đưa đến Niết-bàn. Ngày nay tại phương Tây, phép quán bốn niệm xứ được phổ biến rộng, trong đó hành giả ngồi (Toạ thiền) hay áp dụng phép quán này trong các hoạt động hàng ngày.
Quán Thân bao gồm sự tỉnh giác trong hơi thở, thở ra, thở vào (pi. ānāpānasati), cũng như tỉnh giác trong bốn dạng cơ bản của thân (đi, đứng, nằm, ngồi). Tỉnh giác trong mọi hoạt động của thân thể, quán sát 32 phần thân thể, quán sát yếu tố tạo thành thân cũng như quán tử thi.
Quán Thụ là nhận biết rõ những cảm giác, cảm xúc dấy lên trong tâm, biết chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính, nhận biết chúng là thế gian hay xuất thế, biết tính vô thường của chúng.
Quán Tâm là chú ý đến các tâm pháp (ý nghĩ) đang hiện hành, biết nó là tham hay vô tham, sân hay vô sân, si hay vô si (Tâm sở).
Quán Pháp là biết rõ mọi pháp đều phụ thuộc lẫn nhau, đều Vô ngã, biết rõ Ngũ chướng có hiện hành hay không, biết rõ con người chỉ là Ngũ uẩn đang hoạt động, biết rõ gốc hiện hành của các pháp và hiểu rõ Tứ diệu đế.
Trong Đại thừa, các phép niệm xứ được hiểu là quán thân, thụ, tâm, pháp; bốn thứ đều là dạng của tính Không.
Đức Phật Thích Ca xưa kia do tu Thiền mà giác ngộ giải thoát. Nhưng khi nói đến Thiền thì nhiều người hoang mang vì có cả một rừng Thiền, nào là Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền, Thiền Đốn Ngộ, Thiền Xuất Hồn, Thiền Yoga, Thiền Tây Tạng, Thiền Zen... không biết theo ai bây giờ? Vì không ai chỉ dạy nên người chán nản thì theo đại một phái Thiền nào đó. Nếu là Thiền Phật giáo như Tây Tạng hay Zen thì còn đỡ, nhưng nếu chẳng may rơi vào Thiền ngoại đạo thì ôi thôi, không những uổng một kiếp này mà còn uổng cả muôn ngàn kiếp sau, vì sai một ly đi ngàn dặm. Cổ đức có câu: "Thà đành ngàn năm không ngộ, không cam một phút sai lầm".
Tứ Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do chính Đức Phật xưa kia đã đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Nhờ hành theo đó, các đệ tử của ngài đã giải thoát đắc quả vô sanh (A La Hán). Những người theo Đại Thừa ngày nay thường bỏ qua và lãng quên pháp môn này, cho đó là pháp Tiểu Thừa, đây là một điều rất đáng tiếc.
Để giới thiệu và giúp cho đọc giả có một ý niệm về tầm quan trọng của pháp này, tôi sẽ so sánh trong phần đầu Kinh Niệm Xứ với Bát Nhã Tâm Kinh, Thiền Niệm Xứ hay Minh Sát với Tổ Sư Thiền, và sau đó sẽ nói về phương thức tu tập Thiền Tứ Niệm Xứ.
Vì không ngoài mục đích giới thiệu sơ qua về "pháp hành" Thiền Tứ Niệm Xứ, chắc chắn đọc giả sẽ cảm thấy nó khô khan, vô vị, và không mấy hứng thú. Nhưng không có một sự giác ngộ nào có thể có nếu chính ta không chịu thực hành, không chịu trở về quan sát nội tâm, theo dõi và ghi nhận tất cả những hoạt động biến chuyển của thân tâm, không chịu nương theo Giới, Định, Huệ mà tu tập. Các bạn hãy suy nghĩ và tu tập theo Tứ Niệm Xứ, nếu thấy hợp và đem lại nhiều chuyển hóa trong đời sống hàng ngày thì các bạn hãy chịu khó lên đường tìm thầy hoặc bạn để học hỏi thêm, nếu ngược lại thì chắc bạn không có nhân duyên rồi, tốt hơn là nên đi tìm phương pháp khác vậy.
Các câu trả lời của các bạn khác đều rất hay. Ở đây tôi muốn thêm một cách tiếp cận khác để góp thêm.
Đạo Phật dù là tông phái đường lối khác nhau như thế nào đi nữa đều có mục đích giác ngộ, giải thoát. Tất cả các tông pháp bao gồm tất cả các pháp Thiền Phật giáo trong đó đều công nhận 3 tiêu chí chung cho tất cả - được gọi là TAM PHÁP ẤN. Đó là VÔ THƯỜNG - VÔ NGÃ - NIẾT BÀN. Trong đó Vô thường là tính chất của vạn vật sự việc trong thế giới nhị nguyên. Nhưng Vô Thường không có trong NIẾT BÀN . Hay nói cách khác tại Niết Bàn vận vật trở về với Pháp thân thanh tịnh, ở đó quyluật Vô thường đã bị phá vỡ và chấm dứt. Tuy nhiên NIẾT BÀN hay trong thế giới Nhị Nguyên vẫn mang một bản chất chung đó là tính VÔ NGÃ. Hay người ta có thể làm một phép gán VÔ NGÃ = NIẾT BÀN. Như vậy mục tiêu đạt tới NIẾT BÀN tịch tịch, dưới một hình thức khác chính là khi ta thấu triệt (NGỘ) rõ TÍNH VÔ NGÃ của vạn sự trong đó (trước hết) là ngay ở thân ta. Khi đạt đến sự chân ngộ đó, vô minh và các nghiệp lậu sẽ bị phá tan tành. Vòng 12 nhân duyên sẽ bị dứt tung. Và người ta ra khỏi sự xoay vần sống chết của luân hồi.
Đức Phật đã chỉ dạy cho người đời phương pháp thiền tứ niệm xứ để giúp người ta từng bước thấy được tính VÔ THƯỜNG và tiếp đó là tính VÔ NGÃ ở chính nơi thân, tâm của ta. Đây là một phương pháp Thiền quán lâu đời và rõ ràng, khoa học vào bậc nhất.
Các vị Tổ sau Phật, với tài hoa của mình, sau khi chứng đạo, mỗi người theo một thiên hướng, một căn cơ lại sáng tạo ra một phương pháp lấy nền là Thiền Nguyên thủy (nếu xét kỹ về bản chất thì không có bất thứ thiền Phật giáo nào không có căn bản hay liên hệ sâu xa tới Thiền Nguyên thủy). Tôi chưa thấy bất cứ tư liệu nào do chính các vị Tổ trước tác mà lại đả phá Thiền Tứ Niệm xứ do Phật dạy. Tuy nhiên nhiều người đời sau, học Phật chưa tinh, hay có tư tưởng cục bộ hơn thua, gán ghép cho thiền Tứ niệm xứ thuộc đạo phật Tiêủ thừa với ý khinh miệt và đánh giá thấp. Thật đánh tiếc và đáng thương.
Nếu bạn đọc các tông phái thiền thuộc đại thừa bạn sẽ thấy ngay sự huyền bí, uyên thâm (có lẽ nó hợp với tính cách triết lý sâu xa của người Trung Hoa cổ). Nếu bạn không có căn cơ và thiên hướng chuộng sự trừu tượng, thâm thúy như vậy thì tôi nghĩ Thiền Tứ niệm xứ là con đường tuyệt với nhất vì sự chân thực, dễ hiểu và được xây dựng tuần tự từng bước một cách có khoa học. Nó hợp với số đông người bình thường. Đồng thời nó chắc chắn là con đường chân xác để đi tới sự giác Ngộ cuối cùng, vì đây chính là điều Phật đã dày công chỉ bảo, và bao nhiêu đệ tử giỏi giang của người đã bằng con đường này mà chứng ngộ. Nhân đây tôi muốn đưa ra câu hỏi với tất cả những ai cho rằng tiểu thừa là pháp tu giành cho người căn cơ thấp kém: Thế những đệ tử đời đầu, được nhận sự giảng dạy chân truyền của Phật đều là hạng "căn cơ thấp kém" sao? Thế thì câu nói "được sinh ra trong thời Phật, được gần Phật là những người có công đức cao dày..." cần phải được hiểu sao đây?
Đây là thiền minh sát của phật giáo nguyên thủy ,để tâm thanh tịnh ,tỉnh thức theo dỏi sự diễn biến của:
-- thân : thở vào biết thở vào ,thở ra biết thở ra
--thọ :cảm giác nóng lạnh ,rít ngứa ...
--tâm :những ý niệm thoáng qua trong tâm
--pháp:vạn vật biến thiên .Im lăng lắng nghe vô tư các diển biến trời đất
Họ thấy rỏ và giác ngộ 4 sự thật :các pháp VÔ THƯỜNG và KHỔ , không có cái ta chẳng qua là hà sa ý niện rời rạc ,vì diển biến sinh diệt cực nhanh nên ta lầm là cái tôi > VÔ NGÃ , các pháp sinh diệt trong tính KHÔNG
Answers & Comments
Verified answer
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật.
Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản.
Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...
Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tuy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Các cách thiền này được gọi là Như Lai Thiền.
Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
====
Thiền Tứ niệm xứ (Thiền Vipassana hay Nội quán, Minh sát tuệ) là dòng thiền cổ xưa nhất của Phật giáo. Pháp hành này lấy thân, thọ, tâm, pháp làm đối tượng quán chiếu. Hành giả nhận ra tất cả những cảm thọ và chuyển động trên thân cũng như tâm, giữ tâm quân bình và tỉnh thức để đoạn trừ tham, sân, si, đạt đến giải thoát.
Từ những thăng trầm của Phật giáo tại đất Ấn, dòng thiền này đã được truyền bá sang nhiều quốc gia lân cận, trong đó Myanmar được xem là nơi gìn giữ pháp tu này một cách cẩn mật nhất với những vị thiền sư nhiều đời tiếp nối. Trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam đang khởi phát nhiều pháp thiền, trong đó có Vipassana.
=======
Nếu ở TP Hồ Chí Minh bạn có thể liên lạc:
Tỳ kheo ni THÍCH NỮ KIẾN LIÊN.
Tịnh xá Ngọc Thành, 37/12 đường 41, Khu phố 6, P. Linh Đông, Q. Thủ Đức, TP. HCM. (ĐT: 9374079 - 8960664)
Tịnh xá Ngọc Thành thường xuyên mở các khóa tu Thiền Vipassana cho các chư vị tăng, ni, và phật tử.
Tứ niệm xứ (zh. 四念處, sa. smṛtyupasthāna; P: satipaṭṭhāna), là bốn phép quán cơ bản về sự tỉnh giác. Phương pháp thiền quán của Phật giáo nguyên thuỷ gồm quán thân sa., pi. kāya, quán thụ (sa., pi. vedanā), quán tâm (sa., pi. citta) và các pháp (tức là những ý nghĩ, khái niệm, gom lại là tâm pháp).
Phương pháp quán chiếu này được nói rõ trong kinh Tứ niệm xứ (pi satipaṭṭhāna-sutta) và Phật từng nói rằng, pháp này có thể đưa đến Niết-bàn. Ngày nay tại phương Tây, phép quán bốn niệm xứ được phổ biến rộng, trong đó hành giả ngồi (Toạ thiền) hay áp dụng phép quán này trong các hoạt động hàng ngày.
Quán Thân bao gồm sự tỉnh giác trong hơi thở, thở ra, thở vào (pi. ānāpānasati), cũng như tỉnh giác trong bốn dạng cơ bản của thân (đi, đứng, nằm, ngồi). Tỉnh giác trong mọi hoạt động của thân thể, quán sát 32 phần thân thể, quán sát yếu tố tạo thành thân cũng như quán tử thi.
Quán Thụ là nhận biết rõ những cảm giác, cảm xúc dấy lên trong tâm, biết chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính, nhận biết chúng là thế gian hay xuất thế, biết tính vô thường của chúng.
Quán Tâm là chú ý đến các tâm pháp (ý nghĩ) đang hiện hành, biết nó là tham hay vô tham, sân hay vô sân, si hay vô si (Tâm sở).
Quán Pháp là biết rõ mọi pháp đều phụ thuộc lẫn nhau, đều Vô ngã, biết rõ Ngũ chướng có hiện hành hay không, biết rõ con người chỉ là Ngũ uẩn đang hoạt động, biết rõ gốc hiện hành của các pháp và hiểu rõ Tứ diệu đế.
Trong Đại thừa, các phép niệm xứ được hiểu là quán thân, thụ, tâm, pháp; bốn thứ đều là dạng của tính Không.
J.
Đức Phật Thích Ca xưa kia do tu Thiền mà giác ngộ giải thoát. Nhưng khi nói đến Thiền thì nhiều người hoang mang vì có cả một rừng Thiền, nào là Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền, Thiền Đốn Ngộ, Thiền Xuất Hồn, Thiền Yoga, Thiền Tây Tạng, Thiền Zen... không biết theo ai bây giờ? Vì không ai chỉ dạy nên người chán nản thì theo đại một phái Thiền nào đó. Nếu là Thiền Phật giáo như Tây Tạng hay Zen thì còn đỡ, nhưng nếu chẳng may rơi vào Thiền ngoại đạo thì ôi thôi, không những uổng một kiếp này mà còn uổng cả muôn ngàn kiếp sau, vì sai một ly đi ngàn dặm. Cổ đức có câu: "Thà đành ngàn năm không ngộ, không cam một phút sai lầm".
Tứ Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do chính Đức Phật xưa kia đã đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Nhờ hành theo đó, các đệ tử của ngài đã giải thoát đắc quả vô sanh (A La Hán). Những người theo Đại Thừa ngày nay thường bỏ qua và lãng quên pháp môn này, cho đó là pháp Tiểu Thừa, đây là một điều rất đáng tiếc.
Để giới thiệu và giúp cho đọc giả có một ý niệm về tầm quan trọng của pháp này, tôi sẽ so sánh trong phần đầu Kinh Niệm Xứ với Bát Nhã Tâm Kinh, Thiền Niệm Xứ hay Minh Sát với Tổ Sư Thiền, và sau đó sẽ nói về phương thức tu tập Thiền Tứ Niệm Xứ.
Vì không ngoài mục đích giới thiệu sơ qua về "pháp hành" Thiền Tứ Niệm Xứ, chắc chắn đọc giả sẽ cảm thấy nó khô khan, vô vị, và không mấy hứng thú. Nhưng không có một sự giác ngộ nào có thể có nếu chính ta không chịu thực hành, không chịu trở về quan sát nội tâm, theo dõi và ghi nhận tất cả những hoạt động biến chuyển của thân tâm, không chịu nương theo Giới, Định, Huệ mà tu tập. Các bạn hãy suy nghĩ và tu tập theo Tứ Niệm Xứ, nếu thấy hợp và đem lại nhiều chuyển hóa trong đời sống hàng ngày thì các bạn hãy chịu khó lên đường tìm thầy hoặc bạn để học hỏi thêm, nếu ngược lại thì chắc bạn không có nhân duyên rồi, tốt hơn là nên đi tìm phương pháp khác vậy.
Tứ là 4 , thiền này lấy 4 lảnh vực thân , thọ , tâm ,pháp làm đối tượng quán sát nên gọi là thiền tứ niệm xứ . Đó là :
1/ Quán thân bất tịnh
2/ Quán tâm vô thường
3/ Quán pháp vô ngã
4/ Quán thọ thị khổ
Các câu trả lời của các bạn khác đều rất hay. Ở đây tôi muốn thêm một cách tiếp cận khác để góp thêm.
Đạo Phật dù là tông phái đường lối khác nhau như thế nào đi nữa đều có mục đích giác ngộ, giải thoát. Tất cả các tông pháp bao gồm tất cả các pháp Thiền Phật giáo trong đó đều công nhận 3 tiêu chí chung cho tất cả - được gọi là TAM PHÁP ẤN. Đó là VÔ THƯỜNG - VÔ NGÃ - NIẾT BÀN. Trong đó Vô thường là tính chất của vạn vật sự việc trong thế giới nhị nguyên. Nhưng Vô Thường không có trong NIẾT BÀN . Hay nói cách khác tại Niết Bàn vận vật trở về với Pháp thân thanh tịnh, ở đó quyluật Vô thường đã bị phá vỡ và chấm dứt. Tuy nhiên NIẾT BÀN hay trong thế giới Nhị Nguyên vẫn mang một bản chất chung đó là tính VÔ NGÃ. Hay người ta có thể làm một phép gán VÔ NGÃ = NIẾT BÀN. Như vậy mục tiêu đạt tới NIẾT BÀN tịch tịch, dưới một hình thức khác chính là khi ta thấu triệt (NGỘ) rõ TÍNH VÔ NGÃ của vạn sự trong đó (trước hết) là ngay ở thân ta. Khi đạt đến sự chân ngộ đó, vô minh và các nghiệp lậu sẽ bị phá tan tành. Vòng 12 nhân duyên sẽ bị dứt tung. Và người ta ra khỏi sự xoay vần sống chết của luân hồi.
Đức Phật đã chỉ dạy cho người đời phương pháp thiền tứ niệm xứ để giúp người ta từng bước thấy được tính VÔ THƯỜNG và tiếp đó là tính VÔ NGÃ ở chính nơi thân, tâm của ta. Đây là một phương pháp Thiền quán lâu đời và rõ ràng, khoa học vào bậc nhất.
Các vị Tổ sau Phật, với tài hoa của mình, sau khi chứng đạo, mỗi người theo một thiên hướng, một căn cơ lại sáng tạo ra một phương pháp lấy nền là Thiền Nguyên thủy (nếu xét kỹ về bản chất thì không có bất thứ thiền Phật giáo nào không có căn bản hay liên hệ sâu xa tới Thiền Nguyên thủy). Tôi chưa thấy bất cứ tư liệu nào do chính các vị Tổ trước tác mà lại đả phá Thiền Tứ Niệm xứ do Phật dạy. Tuy nhiên nhiều người đời sau, học Phật chưa tinh, hay có tư tưởng cục bộ hơn thua, gán ghép cho thiền Tứ niệm xứ thuộc đạo phật Tiêủ thừa với ý khinh miệt và đánh giá thấp. Thật đánh tiếc và đáng thương.
Nếu bạn đọc các tông phái thiền thuộc đại thừa bạn sẽ thấy ngay sự huyền bí, uyên thâm (có lẽ nó hợp với tính cách triết lý sâu xa của người Trung Hoa cổ). Nếu bạn không có căn cơ và thiên hướng chuộng sự trừu tượng, thâm thúy như vậy thì tôi nghĩ Thiền Tứ niệm xứ là con đường tuyệt với nhất vì sự chân thực, dễ hiểu và được xây dựng tuần tự từng bước một cách có khoa học. Nó hợp với số đông người bình thường. Đồng thời nó chắc chắn là con đường chân xác để đi tới sự giác Ngộ cuối cùng, vì đây chính là điều Phật đã dày công chỉ bảo, và bao nhiêu đệ tử giỏi giang của người đã bằng con đường này mà chứng ngộ. Nhân đây tôi muốn đưa ra câu hỏi với tất cả những ai cho rằng tiểu thừa là pháp tu giành cho người căn cơ thấp kém: Thế những đệ tử đời đầu, được nhận sự giảng dạy chân truyền của Phật đều là hạng "căn cơ thấp kém" sao? Thế thì câu nói "được sinh ra trong thời Phật, được gần Phật là những người có công đức cao dày..." cần phải được hiểu sao đây?
Xin góp vài điều phiếm luận, mong được chỉ giáo.
Thiền nôm na mà hiểu là tập trung tư tưởng vào một vấn đề ! ở đây hành giả tập trung vào 4 vấn đề :
1/Thân : thấy được là nhơ nhớp - quán thân bất tịnh
2/Tâm : thấy được nó luôn thay đổi - quán tâm vô thường
3/Pháp : thấy được các pháp không có ta ở trong đó :- quán pháp vô ngã
4/Thọ : thấy được nếu ta ôm giữ bất cứ cái gì đều đưa ta đến sự đau khổ - quán thọ thị khổ
Khi hành giả thấm nhuần 4 pháp quán này hành giả đắc quả vị Arahan
Bàn về thiền tứ niệm xứ các bạn đã trả lời đầy đủ rồi. Nhân dịp tôi xin mạn phép tặng các bạn (Niên Dậu, Nhupham ) một đoạn thơ :
Tịnh tâm phản chiếu tỏ nơi lòng
Dứt mọi sự đời tỏ tánh không.
Tứ tướng tam tâm đều diệt sạch
Mới là tỏ ngộ chủ nhơn ông.
Tịnh tọa thường thường giữ tánh chơn
Muôn duyên ngoại chướng cũng không sờn
Giữ mình trơ lặng như kim thạch
Cứng chắc vững bền tựa thái sơn.
Tu phải làm như một cụ già
Mỗi bữa ngồi thiền việc lánh xa
Đạo nghĩa rõ rồi không luận đến
Sách kinh thấy đó biếng xem qua
..............
Không còn thời gian để viết tiếp mong các bạn thông cảm!
Đây là thiền minh sát của phật giáo nguyên thủy ,để tâm thanh tịnh ,tỉnh thức theo dỏi sự diễn biến của:
-- thân : thở vào biết thở vào ,thở ra biết thở ra
--thọ :cảm giác nóng lạnh ,rít ngứa ...
--tâm :những ý niệm thoáng qua trong tâm
--pháp:vạn vật biến thiên .Im lăng lắng nghe vô tư các diển biến trời đất
Họ thấy rỏ và giác ngộ 4 sự thật :các pháp VÔ THƯỜNG và KHỔ , không có cái ta chẳng qua là hà sa ý niện rời rạc ,vì diển biến sinh diệt cực nhanh nên ta lầm là cái tôi > VÔ NGÃ , các pháp sinh diệt trong tính KHÔNG