Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng xa xa tắp!
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga...
Vượt khơi
Về kinh đô
Ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù ...
Triền sóng xô
Muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ ...
Tiệc liên hoan
Nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
Dạ yến ban
Cung nữ dâng lên khúc ca Về Chàm.
Một thời oanh liệt
Người dân nước Chiêm
Lừng ghi chiến công
Vang khắp non sông.
Mộng kia dẫu tan.
Cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non.
Người xưa đâu?
Mồ đắp cao hay đã sâu thành hào.
Lầu các đâu?
Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu
Đồ Bàn miền Trung đường về đây...
Máu như loang thắm chưa phai dấu
xương trắng sâu vùi khí hờn căm...khó tan.
Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng xa xa tắp !
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga...
Người xưa đâu?
--------------------------------
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác ven sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bỗng dưng cả bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan hiện ra trong óc tôi một cách nhẹ nhàng thông suốt, trên đường về nhà, sau khi tham dự ngày Đại Hội Champa 2007 được tổ chức vào hai ngày 7 và 8 tháng 7 năm 2007 tại Le Petit Trianon Theatre, trên đường số 5 thành phố San Jose.
Tôi biết có đại hội này không qua báo chí, mà qua diễn đàn của các anh Trần Lục. Lâu nay việc gia đình giữ chân tôi ở nhà nhiều hơn ra phố để dự hội.
Tôi tò mò khi đọc “Đại Hội Champa 2007 – Vấn đề văn hóa xã hội Champa 175 năm sau khi vương quốc này bị xóa bỏ trên bản đồ (1832-2007).” (Conference on Champa 2007 – Socio-cultural Issues of Champa 175 years arter its disappearance 1832-2007) Nhất là qua những câu chuyện trà dư tửu hậu, người ta hay kháo với nhau về chế độ mẫu hệ của dân tộc Chàm.
Cả hội trường đông đúc, trên lầu là phòng ăn, bên dưới là phòng hội thảo, các diễn giả là các chuyên gia của các trường đại học, các nhà nghiên cứu về Champa cùng các đại diện của cộng đồng Chàm ở Việt Nam, Cam Bốt, Mã Lai, Châu Âu và Hoa Kỳ. Tôi ngồi kề bên ông Cao Văn Đệ tên này được đặt vì ông cao, văn là chữ lót cho con trai và Đệ là phiên âm của David, ông tự giới thiệu như thế, ngoài ra vì nghiên cứu về dân tộc Chàm sống trên đất Việt Nam, ông có thêm tên Che Sah Binu. Ông David Griffiths Sox là một diễn giả trong ngày hội này.
Dĩ nhiên tôi hỏi lung tung về “mẫu hệ” là thế nào? Quyền lợi “mẫu hệ” ra sao? Được gì mất gì, tốt hay xấu giữa mẫu hệ và phụ hệ. Bốn câu trả lời tôi nhận được là bốn câu hoàn toàn khác nhau. Tôi hỏi một phụ nữ trung niên, câu trả lời: “Mẫu hệ là có con theo họ mẹ.” Hỏi một ông già lão: “Mẫu hệ là tôn sùng Mẹ, người sanh sản ra dân tộc.” Hỏi một cô tre trẻ: “Mẫu hệ là đàn bà có quyền nhiều hơn đàn ông.” Hỏi một anh trung niên: “Mẫu hệ là con gái đi cưới con trai.”
Tôi gặp anh Từ Công Phụng, anh còn mệt mỏi sau cuộc giải phẫu hơn một tháng trước, anh nói cho tôi nghe, mẫu hệ là con gái đến nhà con trai để hỏi cưới chồng, nhưng con cái vẫn phải theo họ của cha. Muốn biết về phong tục tập quán của dân tộc Chàm có lẽ tôi phải bỏ rất nhiều thời gian để tìm đọc sách, tìm đọc các nghiên cứu trong thư viện, chứ không thể nào tìm được trong các cuộc lễ hội thế này, vì chủ đề của đại hội chỉ nói đến văn hóa sau khi quốc gia đã bị xóa tên sau 175 năm.
Nói đến dân tộc Chàm (Champa) là nghĩ ngay đến Châu Ô – Châu Lý, nghĩ đến nàng công chúa Huyền Trân, nghĩ đến chuyện tình huyền thoại Huyền Trân-Trần Khắc Chung. Lịch sử muốn được nhớ, được nghĩ đến người ta thường hay dựng nên huyền thoại, người đương thời đôi khi viết truyện dã sử, dùng tên nhân vật có thật rồi thêm thắt theo ý mình, dựng thêm những tình tiết éo le lãng mạn, người đọc đôi khi không để ý cứ thế kể lại cho con cháu nghe theo ý của người đọc, lâu ngày chày tháng câu chuyện lịch sử bỗng trở thành câu chuyện tình diễm lệ có thể đóng thành phim.
175 năm sau ngày quốc gia Champa bị xóa tên trên bản đồ lịch sử, con cháu giòng tộc Champa đang cùng giòng Việt tộc phiêu du trên đất Mỹ tổ chức đại hội, tìm về văn hóa xã hội bản sắc riêng của dân tộc mình là điều thật đáng kính phục. Hơn một thế kỷ xương cốt tiền nhân đã thành bụi, những tháp Chàm u uẩn đứng chơ vơ trên những đoạn đường quốc lộ ngang qua Phan Thiết, Nha Trang. Có vào Tháp Bà Nha Trang xin xâm một lần hẳn không thể nào quên không khí lành lạnh buồn buồn từ trong tháp phả ra, mùi khói hương trầm uất, như than vãn “Hận Đồ Bàn” day dứt. Tôi đứng giữa những phụ nữ mặc lễ phục Chàm, chiếc áo dài kín tà, thay vì xẻ tà cao lên đến eo thành chiếc áo dài Việt Nam, người có đội khăn, người không, những chiếc khăn quàng phủ hết mái tóc, duyên dáng quàng quanh cổ. Phần các ông mặc chiếc áo bà ba vạt khách, tôi hỏi thăm một ông trong ban tổ chức, ông mặc áo có kết nút vải như áo người Trung Quốc: “Có phải đúng là áo của người Chàm mặc ngày xưa không?” Ông cười trả lời: “Không phải đâu, thêm nút tàu này, chỉ cho đẹp thôi.”
Champa là nói chung các chủng tộc: Chăm (Chàm) và những sắc dân Tây Nguyên như: Jarai, Edhé, Chru, Raglai, Bahnar, Sédang, Ma, Kaho, Stieng. Tôn giáo của Chàm pha trộn giữa Ấn Độ giáo và Hồi giáo từ thế kỷ thứ XI. Bây giờ thì tôn giáo chính là Hồi Giáo. Trôi nổi sau bao nhiêu thế kỷ, nỗi lòng của dân Chàm vẫn đau đáu mong chờ một ngày toàn tộc Chàm họp lại cùng nhau.
Tôi không hiểu ngôn ngữ người Champa pha trộn thế nào, nhưng trong ngày hội, khi anh Ramh Dock lên sân khấu trình diễn hai nhạc cụ, được anh tự chế tạo bằng tre tại tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ anh đã phải dùng Anh Ngữ. Tiếng Việt cũng được dùng loáng thoáng, khi tôi không hiểu rõ điều mình được trả lời.
Chương trình văn nghệ thật phong phú, qua các vũ điệu nhịp nhàng, trong trang phục đầy màu sắc, tôi biết các em đã bỏ rất nhiều công sức để tập dượt. Các bài hát tôi được nghe, thanh âm buồn rầu, âm điệu vời vợi giống như những bài hát thời chinh chiến của Việt Nam, bất ngờ bài “Nỗi buồn Châu Pha” ngọt lịm cất lên chứng minh cho điều tôi suy nghĩ:
Ngờ đâu tâm tư nàng đã trót ôm một nỗi buồn.
Chiều mưa rơi rơi, nàng hay đứng âm thầm nhớ ai…
Nhưng rồi một hôm nao, chim rừng lại ríu rít
Đón anh chiến sĩ về thăm buông làng, núi đồi.
Rượu cần lại mang thêm ra, rừng vàng rộn vui câu ca.
Đêm liên hoan, Châu Pha như hoa xinh đẹp nụ cười sáng ngời
À thì ra Châu Pha đã để ý thương anh lính trận.
Chiều nao qua buông, cùng sơn nữ duyên nồng thắm trao.
Bà con thường trêu Châu Pha, niềm riêng thường hay dấu kín.
Nhưng nay ai ai cũng hiểu nỗi buồn Châu Pha.
(Lê Dinh)
Như đã nhắc ở trên, trong chương trình văn nghệ này, đàn t’rưng tôi đã nghe đã thấy, âm thanh tạo ra từ các ống tre dài ngắn khác nhau, còn đàn g’ong là lần đầu tôi thấy, nó giông giống như cây đàn cò, nhưng có nhiều dây hơn, các đọan dây dài ngắn và nhất là hai trái bầu khô, được dùng như thùng đàn tạo nên âm thanh trầm đục. Ban tổ chức chỉ cho anh Dock đúng năm phút quá ít ỏi để giới thiệu về loại nhạc cụ Tây nguyên này thật là đáng tiếc, anh đã được phần thưởng tại tiểu bang North Carolina, từ các nhạc cụ này.
Tôi không dám viết về một văn hóa, một đặc tính dân tộc, tôi chỉ dám nhìn ngắm nét đẹp “hoài cổ” sau 175 năm, tìm đến họp lại cùng nhau, nhắc nhở đến tiền nhân, ôn lại lịch sử. Tôi ngắm sự tương kính của thế hệ trẻ đến các bậc trưởng lão, tôi nghe tiếng kêu: “Ông – Cậu” những vái chào những nụ cười rạng rỡ, có lẽ còn vướng vất đâu đó nỗi hờn trách Đại Việt đã cố tình xóa đi chủng tộc Champ từ thời vua Minh Mạng trong câu: “ The year 1832 brought great tragedy to Champa. After wiping the country off the map, Emperor Minh Menh pursuued a policy of ethnic cleansing toward the defeated peoples.”
Trong sự suy nghĩ rất “đàn bà” của tôi, “dân tộc có nhiều anh hùng là dân tộc đau khổ” tôi không nhớ câu nói của ai, nhưng nó đúng qúa, dân tộc giàu có sung sướng như dân tộc Mỹ, anh hùng của họ là anh chàng đá banh, anh chàng ném bóng. Người chiến thắng tiếp tục lăn cỗ xe lịch sử, kẻ chiến bại tìm đến với nhau để nuối tiếc thời vàng son và ngậm ngùi nhắc nhở quá khứ “hồn về trên tháp ma.”
Chỉ sau 32 năm lìa quê cha đất tổ, văn hóa xã hội trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã có những thay đổi, thì sau 175 năm mất nước, sự tìm về bản sắc dân tộc đặc thù, còn gập ghềnh gian khó đến đâu.
Họp lại cùng nhau để cùng thảo luận một vấn đề, đã là triện son đóng dấu cho ngày lễ hội Champa 2007.
hận đồ bàn của nhà thơ chế lan viên ông là người chàm năm xưa việt nam chiếm đất của người chàm đất chiêm thành nay là quy nhơn ông viết bài này để nói lên nỗi uất hận của mình mà cũng ngộ giờ thấy mấy đứa mở miệng ra chửi trung quốc nói cướp nước nhưng lại không biết chính việt nam cũng thế nói vậy nhột thật nhưng mà lịch sử bị giấu nên giờ cũng chẳng mấy ai biết mà dù biết cũng nói chuyện xưa rồi nhắc lại làm gì thế mà cứ dùng từ ngữ thô tục chửi nước khác mấy đứa sau này bị tuyên truyền thế nào trẻ trâu quá
Đồ Bàn là 1 địa danh ở miền Trung thời còn đất nước Chiêm thành, nhưng trải qua một quá trình lịch sử lâu dài đất nước này không còn(bị xóa sổ) nên có những người vọng tưởng khơi khơi rảnh quá không biết làm gì viết một bài hát ca nghe lãng nhách chơi vậy mà nên mới có thêm chữ "hận" phía trước, thật ra hận ai? ai hận? tác giả cũng không dám nói rõ nữa, chỉ hát nghe vu vơ, lời lẽ trau chuốt nhưng sáo rỗng chẳng có gì là giáo dục cho cuộc sống này tốt đẹp hơn, chỉ hận, tủi, ..... vu vơ, Lịch sử đã khép lại, chúng ta là con người của tương lai và của ngày mai mà cứ dùng chữ hận của quá khứ để làm gi? Lại tiếp tục đánh đấm lung tung như phim chưởng và trả thù như phim à? Ngày nay cơm áo gạo tiền còn là nỗi lo vất vả của biết bao người thì sao ai đó rảnh ra không lo tiếp họ đi mà ở đó đi hận vu vơ, một mối hận (chẳng biết có thật không?) của lịch sử. Thôi đừng qua tâm đến chữ đó cho mệt.
Answers & Comments
Verified answer
cứ nghe kỉ lời bài hát thì hỉu được chút chút chứ gì! Chế linh vì hát và diển cảnh lại bài này mà bị tội chính trị cấm về VN đó !?! coi chừng
Hận Đồ Bàn
Sáng tác: Xuân Tiên
Trình bày: Tuấn Vũ
Rừng hoang vu!
Vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù
Ngàn gió ru
Muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.
Vạc kêu sương!
Buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường.
Đàn đóm vương
Như bóng ai trong lúc đêm trường về.
Rừng trầm cô tịch
Đèo cao thác sâu
Đồi hoang suối reo
Hoang vắng cheo leo
Ngàn muôn tiếng âm
Tháng, năm buồn ngân...
Âm thầm hòa bài hận vong quốc ca.
Người xưa đâu?
Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu.
Lầu các đâu?
Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu.
Đồ Bàn miền Trung đường về đây...
Máu như loang thắm chưa phai dấu
xương trắng sâu vùi khí hờn căm...khó tan.
Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng xa xa tắp!
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga...
Vượt khơi
Về kinh đô
Ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù ...
Triền sóng xô
Muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ ...
Tiệc liên hoan
Nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
Dạ yến ban
Cung nữ dâng lên khúc ca Về Chàm.
Một thời oanh liệt
Người dân nước Chiêm
Lừng ghi chiến công
Vang khắp non sông.
Mộng kia dẫu tan.
Cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non.
Người xưa đâu?
Mồ đắp cao hay đã sâu thành hào.
Lầu các đâu?
Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu
Đồ Bàn miền Trung đường về đây...
Máu như loang thắm chưa phai dấu
xương trắng sâu vùi khí hờn căm...khó tan.
Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng xa xa tắp !
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga...
Người xưa đâu?
--------------------------------
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác ven sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bỗng dưng cả bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan hiện ra trong óc tôi một cách nhẹ nhàng thông suốt, trên đường về nhà, sau khi tham dự ngày Đại Hội Champa 2007 được tổ chức vào hai ngày 7 và 8 tháng 7 năm 2007 tại Le Petit Trianon Theatre, trên đường số 5 thành phố San Jose.
Tôi biết có đại hội này không qua báo chí, mà qua diễn đàn của các anh Trần Lục. Lâu nay việc gia đình giữ chân tôi ở nhà nhiều hơn ra phố để dự hội.
Tôi tò mò khi đọc “Đại Hội Champa 2007 – Vấn đề văn hóa xã hội Champa 175 năm sau khi vương quốc này bị xóa bỏ trên bản đồ (1832-2007).” (Conference on Champa 2007 – Socio-cultural Issues of Champa 175 years arter its disappearance 1832-2007) Nhất là qua những câu chuyện trà dư tửu hậu, người ta hay kháo với nhau về chế độ mẫu hệ của dân tộc Chàm.
Cả hội trường đông đúc, trên lầu là phòng ăn, bên dưới là phòng hội thảo, các diễn giả là các chuyên gia của các trường đại học, các nhà nghiên cứu về Champa cùng các đại diện của cộng đồng Chàm ở Việt Nam, Cam Bốt, Mã Lai, Châu Âu và Hoa Kỳ. Tôi ngồi kề bên ông Cao Văn Đệ tên này được đặt vì ông cao, văn là chữ lót cho con trai và Đệ là phiên âm của David, ông tự giới thiệu như thế, ngoài ra vì nghiên cứu về dân tộc Chàm sống trên đất Việt Nam, ông có thêm tên Che Sah Binu. Ông David Griffiths Sox là một diễn giả trong ngày hội này.
Dĩ nhiên tôi hỏi lung tung về “mẫu hệ” là thế nào? Quyền lợi “mẫu hệ” ra sao? Được gì mất gì, tốt hay xấu giữa mẫu hệ và phụ hệ. Bốn câu trả lời tôi nhận được là bốn câu hoàn toàn khác nhau. Tôi hỏi một phụ nữ trung niên, câu trả lời: “Mẫu hệ là có con theo họ mẹ.” Hỏi một ông già lão: “Mẫu hệ là tôn sùng Mẹ, người sanh sản ra dân tộc.” Hỏi một cô tre trẻ: “Mẫu hệ là đàn bà có quyền nhiều hơn đàn ông.” Hỏi một anh trung niên: “Mẫu hệ là con gái đi cưới con trai.”
Tôi gặp anh Từ Công Phụng, anh còn mệt mỏi sau cuộc giải phẫu hơn một tháng trước, anh nói cho tôi nghe, mẫu hệ là con gái đến nhà con trai để hỏi cưới chồng, nhưng con cái vẫn phải theo họ của cha. Muốn biết về phong tục tập quán của dân tộc Chàm có lẽ tôi phải bỏ rất nhiều thời gian để tìm đọc sách, tìm đọc các nghiên cứu trong thư viện, chứ không thể nào tìm được trong các cuộc lễ hội thế này, vì chủ đề của đại hội chỉ nói đến văn hóa sau khi quốc gia đã bị xóa tên sau 175 năm.
Nói đến dân tộc Chàm (Champa) là nghĩ ngay đến Châu Ô – Châu Lý, nghĩ đến nàng công chúa Huyền Trân, nghĩ đến chuyện tình huyền thoại Huyền Trân-Trần Khắc Chung. Lịch sử muốn được nhớ, được nghĩ đến người ta thường hay dựng nên huyền thoại, người đương thời đôi khi viết truyện dã sử, dùng tên nhân vật có thật rồi thêm thắt theo ý mình, dựng thêm những tình tiết éo le lãng mạn, người đọc đôi khi không để ý cứ thế kể lại cho con cháu nghe theo ý của người đọc, lâu ngày chày tháng câu chuyện lịch sử bỗng trở thành câu chuyện tình diễm lệ có thể đóng thành phim.
175 năm sau ngày quốc gia Champa bị xóa tên trên bản đồ lịch sử, con cháu giòng tộc Champa đang cùng giòng Việt tộc phiêu du trên đất Mỹ tổ chức đại hội, tìm về văn hóa xã hội bản sắc riêng của dân tộc mình là điều thật đáng kính phục. Hơn một thế kỷ xương cốt tiền nhân đã thành bụi, những tháp Chàm u uẩn đứng chơ vơ trên những đoạn đường quốc lộ ngang qua Phan Thiết, Nha Trang. Có vào Tháp Bà Nha Trang xin xâm một lần hẳn không thể nào quên không khí lành lạnh buồn buồn từ trong tháp phả ra, mùi khói hương trầm uất, như than vãn “Hận Đồ Bàn” day dứt. Tôi đứng giữa những phụ nữ mặc lễ phục Chàm, chiếc áo dài kín tà, thay vì xẻ tà cao lên đến eo thành chiếc áo dài Việt Nam, người có đội khăn, người không, những chiếc khăn quàng phủ hết mái tóc, duyên dáng quàng quanh cổ. Phần các ông mặc chiếc áo bà ba vạt khách, tôi hỏi thăm một ông trong ban tổ chức, ông mặc áo có kết nút vải như áo người Trung Quốc: “Có phải đúng là áo của người Chàm mặc ngày xưa không?” Ông cười trả lời: “Không phải đâu, thêm nút tàu này, chỉ cho đẹp thôi.”
Champa là nói chung các chủng tộc: Chăm (Chàm) và những sắc dân Tây Nguyên như: Jarai, Edhé, Chru, Raglai, Bahnar, Sédang, Ma, Kaho, Stieng. Tôn giáo của Chàm pha trộn giữa Ấn Độ giáo và Hồi giáo từ thế kỷ thứ XI. Bây giờ thì tôn giáo chính là Hồi Giáo. Trôi nổi sau bao nhiêu thế kỷ, nỗi lòng của dân Chàm vẫn đau đáu mong chờ một ngày toàn tộc Chàm họp lại cùng nhau.
Tôi không hiểu ngôn ngữ người Champa pha trộn thế nào, nhưng trong ngày hội, khi anh Ramh Dock lên sân khấu trình diễn hai nhạc cụ, được anh tự chế tạo bằng tre tại tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ anh đã phải dùng Anh Ngữ. Tiếng Việt cũng được dùng loáng thoáng, khi tôi không hiểu rõ điều mình được trả lời.
Chương trình văn nghệ thật phong phú, qua các vũ điệu nhịp nhàng, trong trang phục đầy màu sắc, tôi biết các em đã bỏ rất nhiều công sức để tập dượt. Các bài hát tôi được nghe, thanh âm buồn rầu, âm điệu vời vợi giống như những bài hát thời chinh chiến của Việt Nam, bất ngờ bài “Nỗi buồn Châu Pha” ngọt lịm cất lên chứng minh cho điều tôi suy nghĩ:
Ngờ đâu tâm tư nàng đã trót ôm một nỗi buồn.
Chiều mưa rơi rơi, nàng hay đứng âm thầm nhớ ai…
Nhưng rồi một hôm nao, chim rừng lại ríu rít
Đón anh chiến sĩ về thăm buông làng, núi đồi.
Rượu cần lại mang thêm ra, rừng vàng rộn vui câu ca.
Đêm liên hoan, Châu Pha như hoa xinh đẹp nụ cười sáng ngời
À thì ra Châu Pha đã để ý thương anh lính trận.
Chiều nao qua buông, cùng sơn nữ duyên nồng thắm trao.
Bà con thường trêu Châu Pha, niềm riêng thường hay dấu kín.
Nhưng nay ai ai cũng hiểu nỗi buồn Châu Pha.
(Lê Dinh)
Như đã nhắc ở trên, trong chương trình văn nghệ này, đàn t’rưng tôi đã nghe đã thấy, âm thanh tạo ra từ các ống tre dài ngắn khác nhau, còn đàn g’ong là lần đầu tôi thấy, nó giông giống như cây đàn cò, nhưng có nhiều dây hơn, các đọan dây dài ngắn và nhất là hai trái bầu khô, được dùng như thùng đàn tạo nên âm thanh trầm đục. Ban tổ chức chỉ cho anh Dock đúng năm phút quá ít ỏi để giới thiệu về loại nhạc cụ Tây nguyên này thật là đáng tiếc, anh đã được phần thưởng tại tiểu bang North Carolina, từ các nhạc cụ này.
Tôi không dám viết về một văn hóa, một đặc tính dân tộc, tôi chỉ dám nhìn ngắm nét đẹp “hoài cổ” sau 175 năm, tìm đến họp lại cùng nhau, nhắc nhở đến tiền nhân, ôn lại lịch sử. Tôi ngắm sự tương kính của thế hệ trẻ đến các bậc trưởng lão, tôi nghe tiếng kêu: “Ông – Cậu” những vái chào những nụ cười rạng rỡ, có lẽ còn vướng vất đâu đó nỗi hờn trách Đại Việt đã cố tình xóa đi chủng tộc Champ từ thời vua Minh Mạng trong câu: “ The year 1832 brought great tragedy to Champa. After wiping the country off the map, Emperor Minh Menh pursuued a policy of ethnic cleansing toward the defeated peoples.”
Trong sự suy nghĩ rất “đàn bà” của tôi, “dân tộc có nhiều anh hùng là dân tộc đau khổ” tôi không nhớ câu nói của ai, nhưng nó đúng qúa, dân tộc giàu có sung sướng như dân tộc Mỹ, anh hùng của họ là anh chàng đá banh, anh chàng ném bóng. Người chiến thắng tiếp tục lăn cỗ xe lịch sử, kẻ chiến bại tìm đến với nhau để nuối tiếc thời vàng son và ngậm ngùi nhắc nhở quá khứ “hồn về trên tháp ma.”
Chỉ sau 32 năm lìa quê cha đất tổ, văn hóa xã hội trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã có những thay đổi, thì sau 175 năm mất nước, sự tìm về bản sắc dân tộc đặc thù, còn gập ghềnh gian khó đến đâu.
Họp lại cùng nhau để cùng thảo luận một vấn đề, đã là triện son đóng dấu cho ngày lễ hội Champa 2007.
hận đồ bàn của nhà thơ chế lan viên ông là người chàm năm xưa việt nam chiếm đất của người chàm đất chiêm thành nay là quy nhơn ông viết bài này để nói lên nỗi uất hận của mình mà cũng ngộ giờ thấy mấy đứa mở miệng ra chửi trung quốc nói cướp nước nhưng lại không biết chính việt nam cũng thế nói vậy nhột thật nhưng mà lịch sử bị giấu nên giờ cũng chẳng mấy ai biết mà dù biết cũng nói chuyện xưa rồi nhắc lại làm gì thế mà cứ dùng từ ngữ thô tục chửi nước khác mấy đứa sau này bị tuyên truyền thế nào trẻ trâu quá
phan tan loc noi chang hay chuc nao
Chế Linh là dân tộc Champa ( chàm ), nên CL ca bài này là phải rồi.
Đồ Bàn là 1 địa danh ở miền Trung thời còn đất nước Chiêm thành, nhưng trải qua một quá trình lịch sử lâu dài đất nước này không còn(bị xóa sổ) nên có những người vọng tưởng khơi khơi rảnh quá không biết làm gì viết một bài hát ca nghe lãng nhách chơi vậy mà nên mới có thêm chữ "hận" phía trước, thật ra hận ai? ai hận? tác giả cũng không dám nói rõ nữa, chỉ hát nghe vu vơ, lời lẽ trau chuốt nhưng sáo rỗng chẳng có gì là giáo dục cho cuộc sống này tốt đẹp hơn, chỉ hận, tủi, ..... vu vơ, Lịch sử đã khép lại, chúng ta là con người của tương lai và của ngày mai mà cứ dùng chữ hận của quá khứ để làm gi? Lại tiếp tục đánh đấm lung tung như phim chưởng và trả thù như phim à? Ngày nay cơm áo gạo tiền còn là nỗi lo vất vả của biết bao người thì sao ai đó rảnh ra không lo tiếp họ đi mà ở đó đi hận vu vơ, một mối hận (chẳng biết có thật không?) của lịch sử. Thôi đừng qua tâm đến chữ đó cho mệt.