Bạn thật vui tính. Khổng Tử và Khổng Minh tuy đều là người Trung Hoa, nhưng sống khác đời. Thiên hướng, sở trường và sự nghiệp cũng khác nhau nốt. Giống nhau chỉ ở mỗi phiên âm Hán Việt chữ Khổng, nhưng hai chữ đó Viết khác nhau, ý nghĩa cũng khác nốt. Bạn xem một số đặc điểm chính về hai ông được tôi trích dẫn như dưới:
Khổng Tử (chữ Hán: 孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 551 – 479 TCN)Người ta còn gọi ông là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni 仲尼, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình mà ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quí tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông.
Ông là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trên cuộc sống và tư tưởng Đông Á. Triết học của ông nhấn mạnh vai trò cá nhân và việc cai trị bằng đạo đức; sự chính xác của những mối quan hệ xã hội; sự công bằng và sự ngay thẳng. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Lão giáo ở thời nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
Gia Cát Lượng (tiếng Hán: 诸葛亮; bính âm: Zhūge Liàng) (181–236). Tên tự là Khổng Minh (諸葛), là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào giờ Tuất tháng 4 (Tam Quốc). Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Ông là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu ngựa gỗ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Trước hết thời đại mà hai vị “Khổng” này sống không giống nhau hơn thế nữa còn cách nhau khá xa : một vị ở thời Xuân Thu Chiến Quốc (trước Công nguyên gần 4 trăm năm) còn một vị ở thời nhà Hán (sau Công nguyên gần 2 trăm năm). Hai vị có tên bắt đầu bằng chữ Khổng này đều là hai người - khổng - lồ. Một vị là triết gia vĩ đại đã sáng lập ra Nho giáo - Khổng Tử còn một vị là nhà quân sự - chính trị gia đại tài Khổng Minh của đất nước Trung Hoa.
Khổng Tử là người nước Lỗ - một nước không lớn lắm thời Xuân Thu - tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni. Khổng Tử khi mới sinh ra người có tướng lạ : môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng như lưng con rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng mà cao; lớn lên có thánh đức, ham học, chu du các nước đi đến đâu học trò theo đến đấy. Đạo Nho của ông ngày nay được coi trọng, gìn giữ và lưu truyền nhưng sinh thời nghiệp truyền đạo của ông không mấy dễ dàng nếu không muốn nói là chông gai : bị quý tộc các nước lập kế hãm hại, không ít học trò không theo nổi đạo của ông – ví dụ : Tử Lộ người có lúc hoài nghi về triết lí đạo Khổng, Tử Cống người có lúc đòi rút bớt các yêu cầu khắc nghiệt của đạo Khổng… - nên bỏ dở giữa chừng thành ra ông có không nhiều học trò “ruột” mà số này chỉ rất ít có thể kể ra ở đây là : Nhan Hồi - mất trước lúc Khổng Tử từ trần, Tăng Sâm. Trải qua biết bao thăng trầm, biến động của đất nước Trung Hoa hàng ngàn năm, ngày nay đạo Khổng vẫn đang được coi trọng chứng tỏ giá trị vô cùng lớn lao của Nho giáo.
Khổng Minh chỉ là tên chữ còn tên thật của vị này là Gia Cát Lượng. Vị này sinh ra vào năm thứ 4 đời Ninh đế nhà Hán (năm 181 sau CN) ở huyện Dương Đô quận Lang Nha (nay là huyện Nghi Thủy, tỉnh Sơn Đông). Tài thao lược cả về chính trị và quân sự của ông được biết đến khi ông là quân sư cho Lưu Bị. Với tài năng của người quân sư lỗi lạc này mà đạo quân của Lưu Bị thắng hết trận này đến trận khác không những làm cho đối phương buông khí giới mà còn phải tâm phục khẩu phục đầu hàng. Tài năng của ông đã khiến cho tướng Chu Du nước Ngô phải thốt lên câu nói sau này trở nên nổi tiếng : “ Trời sinh Du sao còn sinh Lượng!?”.
bạn lầm rồi khổng tử là thầy giáo đầu tiên của trung hoa và tên thật là 孔丘 sinh năm 28/09/551 trước công nguyên
khổng tử là biệt danh của ông. Khổng họ của ông còn Tử là xưng hô người có học thức của Trung Hoa. Ở Trung hoa người ta lấy ngày sinh của ông làm ngày nhà giáo và có làm chùa để cúng điếu và nhớ tới ông.
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình mà ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quí tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử 孔夫子, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử 孔子. 'Tử' ngoài ý nghĩa là 'con' ra còn có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử 孔子 là Thầy Khổng.
Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào giờ Tuất tháng 4 năm 181 (Tam Quốc). Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).
"tử" như được sử dụng trong danh hiệu của Khổng Tử "Khổng
Tử" (孔子). Đó là hai từ khác nhau được viết
bằng cùng ký tự trong tiếng Trung Quốc. Tử là
họ của triều đình nhà Thương.
2 Tên thụy từ 1530. Trong giai đoạn 1307
và 1530, tên thụy của ông là: "Đại Thành
Chí Thánh
Văn Tuyên Vương" (大成至聖文宣王) đó là
tên ngôi mộ của ông.
3 La tinh hóa thành "Confucius".
Khổng Tử (chữ Hán: 孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 28 tháng 9, 551 – 479 TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trên cuộc sống và tư tưởng Đông Á.
Triết học của ông nhấn mạnh trên cá nhân và cai trị bằng đạo đức, sự chính xác của những mối quan hệ xã hội, sự công bằng và sự ngay thẳng. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Lão giáo ở thời nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Tư tưởng của ông còn được xem là một đạo giáo của loài người, nhất là dân tộc Trung Quốc.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời. Các nhà sử học hiện đại cho rằng bất kỳ một tài liệu nào cũng không thể được coi là do ông viết ra, nhưng trong gần 2,000 năm ông từng được cho là tác giả của Ngũ Kinh, Lễ Ký, và Biên niên sử Xuân Thu.
KHỔNG MINH
Gia Cát Lượng (181- 234) tự Khổng Minh, là một nhân vật chính trị kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Cuối đời Đông Hán, vua hèn yếu, bị quyền thần lấn át, triều đình không kỷ cương phép tắc gì nữa. Bọn quan địa phương tha hồ vơ vét bóc lột của dân, khiến nhân dân vô cùng cực khổ lầm than. Lợi dụng tình hình ấy hào kiệt khắp nơi nổi lên cát cứ, thôn tính lẫn nhau, khiến đất nước loạn lạc tứ tung. Gia Cát Lượng là một người tài cao, học rộng nhưng còn đợi thời ở ẩn tại Nam Dương để có thời gian trao dồi thêm tài năng kiến thức, nuôi dưỡng chí lớn giúp đời. Ngay khi còn nằm trong túp liều tranh nhờ nghiên cứu phân tích tình hình thời thế dựa trên các yếu tố “thiên thời địa lợi nhân hòa” một cách chính xác và sắc sảo, ông đã nhìn ra cái thế “chia ba chân vạc” của các nước Ngụy, Thục, Ngô. Được Lưu Bị ba lần thân hành đến mời, Gia Cát Lượng đã giúp đỡ Lưu Bị xây dựng nước Thục thành một trong ba nước hùng mạnh thời Tam quốc. Ông là một nhà quân sư thiên tài, đã vạch ra chiến lược chiến thuật khiến quân Thục đánh thắng quân Ngụy nhiều trận như trận thiêu đồn Bác Vọng, trận thủy chiến ơ Bạch Hà, trận hỏa công ở Xích Bích... Ông còn giỏi về cách dùng gián điệp, khổ nhục kế li gián hàng ngũ kẽ địch, dùng miệng lưỡi thuyết phục vận động kẻ địch, đánh vào tinh thần của chúng, hoàn thành sách lược liên minh với Ngô để chống Ngụy. Ông còn là một nhà khoa học như nghiên cứu thiên văn, bày “Bát trận đồ”, dùng trâu gỗ lắp máy để vận chuyển quân lương qua những rặng núi hiểm trở đất Thục. Khi Lưu Bị sắp qua đời, ân cần phó thác con côi là Lưu Thiện làm vua Thục Hán. Với chức vụ thừa tướng, lo sắp xếp công việc nội trị để giữ nước yên dân. Ông dâng bài “Xuất sư biểu”, xin đem quân đi đánh Ngụy, lời lẽ hùng tráng kích thiết, được coi là một tác phẩm văn học ưu tú của Trung Quốc. Trong sáu lần ra Kỳ Sơn, ông đã dùng nhiều mưu kế thần diệu như lên thành – đàn để đánh lừa Tư Mã Ý, mai phục ở cửa Kiếm môn để đánh quân Tôn Quyền... Không may ông mắc bệnh qua đời, nên sự nghiệp đành để lở dở, nhưng lịch sử còn ghi mãi tên ông như một nhà quân sự lỗi lạc.
Sự tích về Khổng Minh đầu tiên được chép trong Tam quốc chí của Trần Tho đời Hán, sau được đưa vào Nhi Thập tứ sử, bộ sử chính thống của Trung Quốc.
Đại thi hào Đỗ Phủ đời Đường có bài thơ Đề Gia Cát Vũ hầu miếu hết lời ca ngợi con người và sự nghiệp của ông: “Lầm lẫm xuất sư biểu, Đường đường bát trận đồ”. Nhà chính trị và nhà thơ yêu nước Văn Thiên Đường đời Tống trong khi bị quân xâm lược Nguyên Mông bắt, đã làm bài Chính khí ca để giải bày tấm long của mình, trong khi nhắc đến những tấm gương oanh liệt trong lịch sử, đã đề cập đến Gia Cát Lượng trong câu thơ bất hủ “Hoặc vi xuất sư biểu, Quỷ thần khấp trang liệt” (Bài biểu xin ra quân, khiến cho quỷ thần phải khóc trước sự hùng tráng). Nhưng phải đợi đến Tam quốc trí của La Quán Trung đời Minh, dựa theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ và những thoại bản lưu truyền trong nhân gian để viết thành tiểu thuyết, sự tích Khổng Minh mới được truyề tụng khắp chợ cùng quê và Khổng Minh thành nhân vật điển hình cho con người mưu trí tuyệt vời. Thông qua tài năng nghệ thuật của La Quán Trung, hình tượng Khổng Minh được xây dựng hết sức thành công, làm say mê mấy thế hệ người đọc đến mấy chữ “mưu Gia Cát” “kế Khổng Minh” đã đi vào thành ngữ nhân gian.
Ở Việt Nam, sự tích về Khổng Minh đã được truyền tụng từ lâu. Khi Trần Nghệ Tông đem con gửi cho Hồ Qúi Ly, đã cho người vẽ bức tranh Tứ phụ đồ ban cho Qúy Ly, trong đó vẽ tích bốn người: Chu Công giúp Thành Vương, Hắc Quan giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Hán Hậu Chủ, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tôn, ngụ ý mong mởi Qúy Ly cũng sẽ giúp con mình như thế. Đến lúc Nghệ Tông đem việc này hỏi Trần Nguyên Đán (ông ngoại Nguyễn Trãi), ông lặng lẽ không đáp, hồi lâu chảy nước mắt và đọc hai câu thơ: “Nhận ngôn ký tử dữ lão nha, Bất thức lão nha liên ái Phủ” (Đem con mà gởi quạ già, Biết là cái quạ thương là chẳng thương). Nghệ Tông không nghe cứ đem con là Trần Thuận uỷ thác cho Qúy Ly, quả nhiên tám năm sau Quý Ly bắt Thuận Tông phải nhường ngôi cho con mới lên ba tức Thiếu Đế, rồi lại truất Thiếu Đế mà lên làm vua.
Trong văn học dân gian cũng lưu hành giai thoại: Có một người học trò nhà nghèo, một hôm hết tiền ăn phải đem quần áo đến cầm ở nhà một ông quan.
Ông này bảo: Thày có thực là học trò thì tôi ra cho vế câu đối này, nếu đối được thì tôi sẽ cấp tiền cho ăn học”. Rồi ông ta đọc luôn :
Quần tử cố cùng, Quận tử cùng, quân tử cố.
Nghĩa là: Người quân tử bền lòng lúc cùng, người quân tử cùng, người quân tử bền lòng.
Người học trò đối ngày rằng :
Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm Nghĩ là: Ông Khổng Minh bắt, tha, ông Khổng Minh tha, ông Khổng Minh bắt. Lấy tích “Khổng Minh thất cầm thất túng” bảy lần bắt bảy lần tha Mạnh Hoạch để dùng lượng khoan hồng thuyết phục kẻ địch quy thuận.
Ông quan khen phục câu đối vừa có nghĩa đen vừa có nghĩ bóng, vừa đối chữ, vừa đối tiếng (cùng, túng, cầm, cố), bèn cấp tiền cho anh ta ăn học.
Khi Đào Duy Từ (1572 – 1634 ) rời bỏ Đàng Ngoài tìm vào Đàng Trong, phiêu dạt tới Bình Định phải đi chăn trâu một thời gian rồi xin vào dạy học ở nhà quan Khám Lý Trần Đức Hòa. Từ làm bài Ngọa Long Cương ngâm, tự ví mình với Khổng Minh qua đó bày tỏ chí hướng của mình. Trần Đức Hòa đọc lấy làm lạ liền tiến cử Từ tên chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Từ được chúa biết tài nên rất tin dùng, phong dần đến chức Quân cơ tham lý quốc chính, tước Lộc Khu
Bạn lầm rồi 2 ông ko sống cùng thời đâu nha bạn.MÀ bạn nên biết 1 điều Khổng Minh ko phải là tên thật.Tên của ổng là Gia Cát Lượng.bạn có thể vào đây để xem nha bạn.
Answers & Comments
Verified answer
Bạn thật vui tính. Khổng Tử và Khổng Minh tuy đều là người Trung Hoa, nhưng sống khác đời. Thiên hướng, sở trường và sự nghiệp cũng khác nhau nốt. Giống nhau chỉ ở mỗi phiên âm Hán Việt chữ Khổng, nhưng hai chữ đó Viết khác nhau, ý nghĩa cũng khác nốt. Bạn xem một số đặc điểm chính về hai ông được tôi trích dẫn như dưới:
Khổng Tử (chữ Hán: 孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 551 – 479 TCN)Người ta còn gọi ông là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni 仲尼, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình mà ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quí tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông.
Ông là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trên cuộc sống và tư tưởng Đông Á. Triết học của ông nhấn mạnh vai trò cá nhân và việc cai trị bằng đạo đức; sự chính xác của những mối quan hệ xã hội; sự công bằng và sự ngay thẳng. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Lão giáo ở thời nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
Gia Cát Lượng (tiếng Hán: 诸葛亮; bính âm: Zhūge Liàng) (181–236). Tên tự là Khổng Minh (諸葛), là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào giờ Tuất tháng 4 (Tam Quốc). Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Ông là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu ngựa gỗ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Chào bạn.
Trước hết thời đại mà hai vị “Khổng” này sống không giống nhau hơn thế nữa còn cách nhau khá xa : một vị ở thời Xuân Thu Chiến Quốc (trước Công nguyên gần 4 trăm năm) còn một vị ở thời nhà Hán (sau Công nguyên gần 2 trăm năm). Hai vị có tên bắt đầu bằng chữ Khổng này đều là hai người - khổng - lồ. Một vị là triết gia vĩ đại đã sáng lập ra Nho giáo - Khổng Tử còn một vị là nhà quân sự - chính trị gia đại tài Khổng Minh của đất nước Trung Hoa.
Khổng Tử là người nước Lỗ - một nước không lớn lắm thời Xuân Thu - tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni. Khổng Tử khi mới sinh ra người có tướng lạ : môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng như lưng con rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng mà cao; lớn lên có thánh đức, ham học, chu du các nước đi đến đâu học trò theo đến đấy. Đạo Nho của ông ngày nay được coi trọng, gìn giữ và lưu truyền nhưng sinh thời nghiệp truyền đạo của ông không mấy dễ dàng nếu không muốn nói là chông gai : bị quý tộc các nước lập kế hãm hại, không ít học trò không theo nổi đạo của ông – ví dụ : Tử Lộ người có lúc hoài nghi về triết lí đạo Khổng, Tử Cống người có lúc đòi rút bớt các yêu cầu khắc nghiệt của đạo Khổng… - nên bỏ dở giữa chừng thành ra ông có không nhiều học trò “ruột” mà số này chỉ rất ít có thể kể ra ở đây là : Nhan Hồi - mất trước lúc Khổng Tử từ trần, Tăng Sâm. Trải qua biết bao thăng trầm, biến động của đất nước Trung Hoa hàng ngàn năm, ngày nay đạo Khổng vẫn đang được coi trọng chứng tỏ giá trị vô cùng lớn lao của Nho giáo.
Khổng Minh chỉ là tên chữ còn tên thật của vị này là Gia Cát Lượng. Vị này sinh ra vào năm thứ 4 đời Ninh đế nhà Hán (năm 181 sau CN) ở huyện Dương Đô quận Lang Nha (nay là huyện Nghi Thủy, tỉnh Sơn Đông). Tài thao lược cả về chính trị và quân sự của ông được biết đến khi ông là quân sư cho Lưu Bị. Với tài năng của người quân sư lỗi lạc này mà đạo quân của Lưu Bị thắng hết trận này đến trận khác không những làm cho đối phương buông khí giới mà còn phải tâm phục khẩu phục đầu hàng. Tài năng của ông đã khiến cho tướng Chu Du nước Ngô phải thốt lên câu nói sau này trở nên nổi tiếng : “ Trời sinh Du sao còn sinh Lượng!?”.
bạn lầm rồi khổng tử là thầy giáo đầu tiên của trung hoa và tên thật là 孔丘 sinh năm 28/09/551 trước công nguyên
khổng tử là biệt danh của ông. Khổng họ của ông còn Tử là xưng hô người có học thức của Trung Hoa. Ở Trung hoa người ta lấy ngày sinh của ông làm ngày nhà giáo và có làm chùa để cúng điếu và nhớ tới ông.
khổng tử và khổng minh 2 ông này ông nào là sinh ra trước vậy? thời xuân thu và thời tam quốc thời nào có trước?
họ là anh em sinh đôi thì phải :))
khổng tử là người sáng lập ra nho giáo.Còn khổng minh hay gia cát lượng là quân sự của lưu bị nước thục thời tam quốc
Khổng Tử sống vào thời Xuân Thu chiến quốc, là người nước Lổ.
Khổng Minh sống vào thời Tam Quốc , hai người không có bà con họ hàng gì cã bạn ạ
không có bà con gì ví nhau đâu,
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình mà ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quí tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử 孔夫子, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử 孔子. 'Tử' ngoài ý nghĩa là 'con' ra còn có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử 孔子 là Thầy Khổng.
Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào giờ Tuất tháng 4 năm 181 (Tam Quốc). Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).
Khổng Tử
Khổng Tử
Họ tổ tiên:
(姓) Tử¹ (子)
(Bính âm: Zǐ)
Họ gia đình:
(氏) Khổng (孔)
(Bính âm: Kǒng)
Tên:
(名) Khâu (丘)
(Bính âm: Qiū)
Tên tự:
(字) Trọng Ni (仲尼)
(Bính âm: Zhòngní)
Tên thuỵ:
(謚) Chí thánh tiên sư²
(Ch: 至聖先師 ;
Bính âm: Zhìshèng Xiānshī)
Danh hiệu: Khổng Tử³
(Ch: 孔子,
ít sử dụng hơn 孔夫子;
Bính âm: Kǒngzǐ, ít sử dụng hơn
Khổng Phu Tử;
WG: K'ung-tzu, ít sử dụng hơn
Khổng Phu Tử)
1Từ Trung Quốc này (子), họ tổ tiên
Khổng Tử, không nên nhầm lẫn với từ
"tử" như được sử dụng trong danh hiệu của Khổng Tử "Khổng
Tử" (孔子). Đó là hai từ khác nhau được viết
bằng cùng ký tự trong tiếng Trung Quốc. Tử là
họ của triều đình nhà Thương.
2 Tên thụy từ 1530. Trong giai đoạn 1307
và 1530, tên thụy của ông là: "Đại Thành
Chí Thánh
Văn Tuyên Vương" (大成至聖文宣王) đó là
tên ngôi mộ của ông.
3 La tinh hóa thành "Confucius".
Khổng Tử (chữ Hán: 孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 28 tháng 9, 551 – 479 TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trên cuộc sống và tư tưởng Đông Á.
Triết học của ông nhấn mạnh trên cá nhân và cai trị bằng đạo đức, sự chính xác của những mối quan hệ xã hội, sự công bằng và sự ngay thẳng. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Lão giáo ở thời nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Tư tưởng của ông còn được xem là một đạo giáo của loài người, nhất là dân tộc Trung Quốc.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời. Các nhà sử học hiện đại cho rằng bất kỳ một tài liệu nào cũng không thể được coi là do ông viết ra, nhưng trong gần 2,000 năm ông từng được cho là tác giả của Ngũ Kinh, Lễ Ký, và Biên niên sử Xuân Thu.
KHỔNG MINH
Gia Cát Lượng (181- 234) tự Khổng Minh, là một nhân vật chính trị kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Cuối đời Đông Hán, vua hèn yếu, bị quyền thần lấn át, triều đình không kỷ cương phép tắc gì nữa. Bọn quan địa phương tha hồ vơ vét bóc lột của dân, khiến nhân dân vô cùng cực khổ lầm than. Lợi dụng tình hình ấy hào kiệt khắp nơi nổi lên cát cứ, thôn tính lẫn nhau, khiến đất nước loạn lạc tứ tung. Gia Cát Lượng là một người tài cao, học rộng nhưng còn đợi thời ở ẩn tại Nam Dương để có thời gian trao dồi thêm tài năng kiến thức, nuôi dưỡng chí lớn giúp đời. Ngay khi còn nằm trong túp liều tranh nhờ nghiên cứu phân tích tình hình thời thế dựa trên các yếu tố “thiên thời địa lợi nhân hòa” một cách chính xác và sắc sảo, ông đã nhìn ra cái thế “chia ba chân vạc” của các nước Ngụy, Thục, Ngô. Được Lưu Bị ba lần thân hành đến mời, Gia Cát Lượng đã giúp đỡ Lưu Bị xây dựng nước Thục thành một trong ba nước hùng mạnh thời Tam quốc. Ông là một nhà quân sư thiên tài, đã vạch ra chiến lược chiến thuật khiến quân Thục đánh thắng quân Ngụy nhiều trận như trận thiêu đồn Bác Vọng, trận thủy chiến ơ Bạch Hà, trận hỏa công ở Xích Bích... Ông còn giỏi về cách dùng gián điệp, khổ nhục kế li gián hàng ngũ kẽ địch, dùng miệng lưỡi thuyết phục vận động kẻ địch, đánh vào tinh thần của chúng, hoàn thành sách lược liên minh với Ngô để chống Ngụy. Ông còn là một nhà khoa học như nghiên cứu thiên văn, bày “Bát trận đồ”, dùng trâu gỗ lắp máy để vận chuyển quân lương qua những rặng núi hiểm trở đất Thục. Khi Lưu Bị sắp qua đời, ân cần phó thác con côi là Lưu Thiện làm vua Thục Hán. Với chức vụ thừa tướng, lo sắp xếp công việc nội trị để giữ nước yên dân. Ông dâng bài “Xuất sư biểu”, xin đem quân đi đánh Ngụy, lời lẽ hùng tráng kích thiết, được coi là một tác phẩm văn học ưu tú của Trung Quốc. Trong sáu lần ra Kỳ Sơn, ông đã dùng nhiều mưu kế thần diệu như lên thành – đàn để đánh lừa Tư Mã Ý, mai phục ở cửa Kiếm môn để đánh quân Tôn Quyền... Không may ông mắc bệnh qua đời, nên sự nghiệp đành để lở dở, nhưng lịch sử còn ghi mãi tên ông như một nhà quân sự lỗi lạc.
Sự tích về Khổng Minh đầu tiên được chép trong Tam quốc chí của Trần Tho đời Hán, sau được đưa vào Nhi Thập tứ sử, bộ sử chính thống của Trung Quốc.
Đại thi hào Đỗ Phủ đời Đường có bài thơ Đề Gia Cát Vũ hầu miếu hết lời ca ngợi con người và sự nghiệp của ông: “Lầm lẫm xuất sư biểu, Đường đường bát trận đồ”. Nhà chính trị và nhà thơ yêu nước Văn Thiên Đường đời Tống trong khi bị quân xâm lược Nguyên Mông bắt, đã làm bài Chính khí ca để giải bày tấm long của mình, trong khi nhắc đến những tấm gương oanh liệt trong lịch sử, đã đề cập đến Gia Cát Lượng trong câu thơ bất hủ “Hoặc vi xuất sư biểu, Quỷ thần khấp trang liệt” (Bài biểu xin ra quân, khiến cho quỷ thần phải khóc trước sự hùng tráng). Nhưng phải đợi đến Tam quốc trí của La Quán Trung đời Minh, dựa theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ và những thoại bản lưu truyền trong nhân gian để viết thành tiểu thuyết, sự tích Khổng Minh mới được truyề tụng khắp chợ cùng quê và Khổng Minh thành nhân vật điển hình cho con người mưu trí tuyệt vời. Thông qua tài năng nghệ thuật của La Quán Trung, hình tượng Khổng Minh được xây dựng hết sức thành công, làm say mê mấy thế hệ người đọc đến mấy chữ “mưu Gia Cát” “kế Khổng Minh” đã đi vào thành ngữ nhân gian.
Ở Việt Nam, sự tích về Khổng Minh đã được truyền tụng từ lâu. Khi Trần Nghệ Tông đem con gửi cho Hồ Qúi Ly, đã cho người vẽ bức tranh Tứ phụ đồ ban cho Qúy Ly, trong đó vẽ tích bốn người: Chu Công giúp Thành Vương, Hắc Quan giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Hán Hậu Chủ, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tôn, ngụ ý mong mởi Qúy Ly cũng sẽ giúp con mình như thế. Đến lúc Nghệ Tông đem việc này hỏi Trần Nguyên Đán (ông ngoại Nguyễn Trãi), ông lặng lẽ không đáp, hồi lâu chảy nước mắt và đọc hai câu thơ: “Nhận ngôn ký tử dữ lão nha, Bất thức lão nha liên ái Phủ” (Đem con mà gởi quạ già, Biết là cái quạ thương là chẳng thương). Nghệ Tông không nghe cứ đem con là Trần Thuận uỷ thác cho Qúy Ly, quả nhiên tám năm sau Quý Ly bắt Thuận Tông phải nhường ngôi cho con mới lên ba tức Thiếu Đế, rồi lại truất Thiếu Đế mà lên làm vua.
Trong văn học dân gian cũng lưu hành giai thoại: Có một người học trò nhà nghèo, một hôm hết tiền ăn phải đem quần áo đến cầm ở nhà một ông quan.
Ông này bảo: Thày có thực là học trò thì tôi ra cho vế câu đối này, nếu đối được thì tôi sẽ cấp tiền cho ăn học”. Rồi ông ta đọc luôn :
Quần tử cố cùng, Quận tử cùng, quân tử cố.
Nghĩa là: Người quân tử bền lòng lúc cùng, người quân tử cùng, người quân tử bền lòng.
Người học trò đối ngày rằng :
Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm Nghĩ là: Ông Khổng Minh bắt, tha, ông Khổng Minh tha, ông Khổng Minh bắt. Lấy tích “Khổng Minh thất cầm thất túng” bảy lần bắt bảy lần tha Mạnh Hoạch để dùng lượng khoan hồng thuyết phục kẻ địch quy thuận.
Ông quan khen phục câu đối vừa có nghĩa đen vừa có nghĩ bóng, vừa đối chữ, vừa đối tiếng (cùng, túng, cầm, cố), bèn cấp tiền cho anh ta ăn học.
Khi Đào Duy Từ (1572 – 1634 ) rời bỏ Đàng Ngoài tìm vào Đàng Trong, phiêu dạt tới Bình Định phải đi chăn trâu một thời gian rồi xin vào dạy học ở nhà quan Khám Lý Trần Đức Hòa. Từ làm bài Ngọa Long Cương ngâm, tự ví mình với Khổng Minh qua đó bày tỏ chí hướng của mình. Trần Đức Hòa đọc lấy làm lạ liền tiến cử Từ tên chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Từ được chúa biết tài nên rất tin dùng, phong dần đến chức Quân cơ tham lý quốc chính, tước Lộc Khu
Bạn lầm rồi 2 ông ko sống cùng thời đâu nha bạn.MÀ bạn nên biết 1 điều Khổng Minh ko phải là tên thật.Tên của ổng là Gia Cát Lượng.bạn có thể vào đây để xem nha bạn.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%95ng_t%E1%BB...
http://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%95ng_Minh