Trả lời ngắn gọn với bạn là thế này! Cá tra không phải là cá vồ.
Cá tra, cá ba sa, cá vồ thuộc họ Pangasiidae gọi chung là cá da trơn. Cá tra và basa là những loài cá kinh tế có giá trị xuất khẩu hiện nay đang được nuôi nhiều ở ĐBSCL. Tuy nhiên, sau vụ tranh chấp tên gọi giữa ta và Mỹ năm 2004, phía Việt đã không thắng thế nên việc sử dụng tên “catfish” chỉ dành cho cá da trơn thuộc họ Ictaluridae (cá nheo Mỹ)>> về tên gọi là thế !
Còn về đặc điểm sinh học thì nói vắn tắt thế này:
Cá tra có đặc điểm lớn nhanh ở giai đoạn nuôi cá thịt nhưng lại lớn chậm ở giai đoạn nhỏ và đặc biệt là có tỉ lệ sống rất thấp khi ương từ bột lên giống.
Trong khi đó, cá ba sa rất dễ ương nuôi, lớn nhanh lúc nhỏ nhưng lại có khả năng tích luỹ mỡ cao trong cơ thể. Bên cạnh đó, do cá basa không có cơ quan hô hấp phụ, cần nhiều oxy hơn cá tra, nên chịu đựng kém ở môi trường nước có hàm lượng ít oxy hoa tan. Vì vậy, môi trường sống của cá basa tốt hơn cá tra.
Một số loại cá khác thuộc họ Pangasiidae như cá vồ, cá hú, cá bông lao,... tuy có đặc điểm hình thái khá giống với cá tra,basa nhưng do có một số đặc điểm về sinh học cũng như phẩm chất thịt mà không được nuôi phổ biến.
Thêm một chi tiết thú vị về cá tra và basa nữa là:
Trong thời điểm ngành thủy sản nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các công ty chế biến thủy sản nhà ta xuất khẩu cá basa sang thị trường nước ngoài với tên gọi là "basa vietnam" . Tuy nhiên, do cá tra lại là một sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm cá basa xuất khẩu, với phẩm chất thịt phi lê tương đối giống cá basa, giá thành cá tra thì rẽ hơn cá basa. Nên một số nhà chế biến thủy sản xuất khẩu đã "năng động" làm cho cá tra bị dán mark cá basa.
PX9.
P.S Mình thích ăn thịt cá hú và cá bông lao hơn, lần nào về quê cũng nhờ Mẹ mua cá hú hay bông lao về nấu chua. Thịt cá này vừa dai vừa thơm lại béo béo, ngon hơn cá basa/cá tra rất nhiều. Các bạn thử xem cùng suy nghĩ với mình không? :D
Cá tra chính là cá vồ. Vì thói quen của một số tỉnh phía nam, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long có khu vệ sinh (cầu tiêu) làm ra sông, ao hồ để " ị " xuống đó. Bọn cá này rất khoái món ấy, khi ta ị xuống là chúng nhao vào "vồ" ăn ngay, nên nó có thêm một cái tên rất "địa phương" là CÁ VỒ đó bạn. Hiện nay chính phủ đã ra chỉ thị xóa bỏ cầu tiêu cá vồ (CTCV) ở ĐBSCL, nhưng cái tên CÁ VỒ chắc sẽ vẫn còn được gọi.
cá cha cá ba sa gì cung la 1 thứ cá cha la người nam hay gọi còn người nước ngoài hoac người bắc kêu la cá ba sa chứ ban co xem tivi khong co bao gio nguoi ta noi la suat khau ca cha bao gio không toàn la ca ba sa không à cá cha nhiều tên lăm đó
Cá ba sa, còn có tên gọi là cá giáo, cá sát bụng, là loại cá da trơn có trị kinh tế cao, được nuôi tập trung tại nhiều nước trên thế giới.
Về ngoại hình, cá ba sa rất dễ phân biệt đối với các loài khác trong họ Cá tra. Thân ngắn hình thoi, hơi dẹp bên, lườn tròn, bụng to tích lũy nhiều mỡ, chiều dài tiêu chuẩn bằng 2,5 lần chiều cao thân. Đầu cá ba sa ngắn hơi tròn, dẹp đứng. Miệng hẹp, chiều rộng của miệng ít hơn 10% chiều dài chuẩn, miệng nằm hơi lệch dưới mõm. Dải răng hàm trên to rộng và có thể nhìn thấy được khi miệng khép lại, có 2 đôi râu, râu hàm tren bằng ½ chiều dài đầu; râu hàm dưới bằng 1/3 chiều dài đầu. Răng trên xương khẩu cái là một đám có vết lõm sâu ở giữa và hai đám răng trên xương lá mía nằm hai bên. Có 40-46 lược mang trên cung mang thứ nhất, vây hậu môn có 31-36 tia vây. Răng vòm miệng với dải răng trên xương khẩu cái ở giữa và răng trên xương lá mía ở 2 bên. Chiều cao của cuống đuôi hơn 7% chiều dài chuẩn. Mặt lưng có màu nâu, mặt bụng có màu trắng.
Cá ba sa phân bố rộng ở Myanma, Java, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Cá sống chủ yếu ở những sông rộng nước chảy mạnh (Mai Đình Yên và ctv, 1992). Đây là đối tượng nuôi nước ngọt có sản lượng xuất khẩu lớn nhất hiện nay. Nghề nuôi cá basa trong bè rất phát triển trên thế giới dưới mô hình nuôi mang tính công nghiệp với mật độ cao, năng suất trung bình 130-150 kg/m³/năm. Hiện nay có khoảng 4.000 bè nuôi, sản xuất trên 40.000 tấn/năm. Cá sống đáy ăn tạp thiên về động vật. Tỉ lệ Li/L (chiều dài ruột/chiều dài toàn thân) nhỏ thay đổi theo loại thức ăn từ 1,78 trong tự nhiên đến 2,36 khi nuôi bè.
Cá giống thả nuôi trong bè cỡ 80-150 g/con, được nuôi với khẩu phần cho loài ăn tạp (50% cám, 30% rau, 20% cá và bột cá) sau 10-11 tháng đạt trọng lượng 800-1500 g/con (Phillip). Cá tăng trưởng nhanh trong tự nhiên, một năm tuổi 0,7 kg, hai năm tuổi 1,2 kg (Lý Kế Huy), kích cỡ tối đa khoảng gần 1 m, trọng lượng 15-18 kg.
Ở Việt Nam hai họ chính trong bộ cá trơn được nghiên cứu là họ Pangasiidae và Clariidae.
Họ Pangasiidae có 21 loài thuộc 2 giống: giống Pangasius có 19 loài và giống Helicophagus có 2 loài. Có một loài sống trong nước lợ, 2 loài sống ở biển. Tính ăn của các loài trong họ Pangasiidae thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển của cá thể.
Trong họ Pangasiidae 2 loài cá ba sa và cá tra là cá nuôi kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt trong hình thức nuôi tăng sản. Hằng năm nghề nuôi cá bè cung cấp hàng ngàn tấn cá ba sa cho thị trường trong nước, thêm vào đó là hàng ngàn tấn nguyên liệu cho thức ăn gia súc. Nếu trong năm 1993 sản lượng nuôi bè ở miền Nam Việt Nam ước lượng vào khoảng 17400 tấn hầu hết là từ các bè nuôi sông Mê Kông, thì chỉ riêng cá ba sa đã chiếm ¾ sản lượng này (13400 tấn). Trong năm 1996 sản lượng loài cá này khoảng 15000 tấn (Phillip Cacot).
Answers & Comments
Verified answer
Trả lời ngắn gọn với bạn là thế này! Cá tra không phải là cá vồ.
Cá tra, cá ba sa, cá vồ thuộc họ Pangasiidae gọi chung là cá da trơn. Cá tra và basa là những loài cá kinh tế có giá trị xuất khẩu hiện nay đang được nuôi nhiều ở ĐBSCL. Tuy nhiên, sau vụ tranh chấp tên gọi giữa ta và Mỹ năm 2004, phía Việt đã không thắng thế nên việc sử dụng tên “catfish” chỉ dành cho cá da trơn thuộc họ Ictaluridae (cá nheo Mỹ)>> về tên gọi là thế !
Còn về đặc điểm sinh học thì nói vắn tắt thế này:
Cá tra có đặc điểm lớn nhanh ở giai đoạn nuôi cá thịt nhưng lại lớn chậm ở giai đoạn nhỏ và đặc biệt là có tỉ lệ sống rất thấp khi ương từ bột lên giống.
Trong khi đó, cá ba sa rất dễ ương nuôi, lớn nhanh lúc nhỏ nhưng lại có khả năng tích luỹ mỡ cao trong cơ thể. Bên cạnh đó, do cá basa không có cơ quan hô hấp phụ, cần nhiều oxy hơn cá tra, nên chịu đựng kém ở môi trường nước có hàm lượng ít oxy hoa tan. Vì vậy, môi trường sống của cá basa tốt hơn cá tra.
Một số loại cá khác thuộc họ Pangasiidae như cá vồ, cá hú, cá bông lao,... tuy có đặc điểm hình thái khá giống với cá tra,basa nhưng do có một số đặc điểm về sinh học cũng như phẩm chất thịt mà không được nuôi phổ biến.
Thêm một chi tiết thú vị về cá tra và basa nữa là:
Trong thời điểm ngành thủy sản nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các công ty chế biến thủy sản nhà ta xuất khẩu cá basa sang thị trường nước ngoài với tên gọi là "basa vietnam" . Tuy nhiên, do cá tra lại là một sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm cá basa xuất khẩu, với phẩm chất thịt phi lê tương đối giống cá basa, giá thành cá tra thì rẽ hơn cá basa. Nên một số nhà chế biến thủy sản xuất khẩu đã "năng động" làm cho cá tra bị dán mark cá basa.
PX9.
P.S Mình thích ăn thịt cá hú và cá bông lao hơn, lần nào về quê cũng nhờ Mẹ mua cá hú hay bông lao về nấu chua. Thịt cá này vừa dai vừa thơm lại béo béo, ngon hơn cá basa/cá tra rất nhiều. Các bạn thử xem cùng suy nghĩ với mình không? :D
Cá tra chính là cá vồ. Vì thói quen của một số tỉnh phía nam, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long có khu vệ sinh (cầu tiêu) làm ra sông, ao hồ để " ị " xuống đó. Bọn cá này rất khoái món ấy, khi ta ị xuống là chúng nhao vào "vồ" ăn ngay, nên nó có thêm một cái tên rất "địa phương" là CÁ VỒ đó bạn. Hiện nay chính phủ đã ra chỉ thị xóa bỏ cầu tiêu cá vồ (CTCV) ở ĐBSCL, nhưng cái tên CÁ VỒ chắc sẽ vẫn còn được gọi.
cho e hỏi cái vồ nuôi ở cầu tiêu có mỡ vàng còn cá vồ nuôi thức ăn thì mỡ trắng có fải ko các bác
đúng /
tùy vùng gọi có nơi gọi cá tra , nơi gọi cá vồ , cá tra nuôi lâu năm có thể lên hơn 20 kí 1 con
chúc vui
Mình không rành lắm !
Xin 2 điểm nhe !
Bạn vào đây để phân biệt cá basa và cá tra : http://chaudocquetoi.blogspot.com/
còn đây là cá vồ http://www.tuoitrecuoi.com/phorum/showthread.php?p...
He he he, nói chơi cho vui vậy thôi chứ cá tra và cá vồ là một thứ. còn cá bấ khác cá tra ở chỗ là nó mập hơn đầu tròn hơn chứ ko dẹt, mình có đưa hình của trang wed đầu tiên ùi.
cá cha cá ba sa gì cung la 1 thứ cá cha la người nam hay gọi còn người nước ngoài hoac người bắc kêu la cá ba sa chứ ban co xem tivi khong co bao gio nguoi ta noi la suat khau ca cha bao gio không toàn la ca ba sa không à cá cha nhiều tên lăm đó
Cá ba sa, còn có tên gọi là cá giáo, cá sát bụng, là loại cá da trơn có trị kinh tế cao, được nuôi tập trung tại nhiều nước trên thế giới.
Về ngoại hình, cá ba sa rất dễ phân biệt đối với các loài khác trong họ Cá tra. Thân ngắn hình thoi, hơi dẹp bên, lườn tròn, bụng to tích lũy nhiều mỡ, chiều dài tiêu chuẩn bằng 2,5 lần chiều cao thân. Đầu cá ba sa ngắn hơi tròn, dẹp đứng. Miệng hẹp, chiều rộng của miệng ít hơn 10% chiều dài chuẩn, miệng nằm hơi lệch dưới mõm. Dải răng hàm trên to rộng và có thể nhìn thấy được khi miệng khép lại, có 2 đôi râu, râu hàm tren bằng ½ chiều dài đầu; râu hàm dưới bằng 1/3 chiều dài đầu. Răng trên xương khẩu cái là một đám có vết lõm sâu ở giữa và hai đám răng trên xương lá mía nằm hai bên. Có 40-46 lược mang trên cung mang thứ nhất, vây hậu môn có 31-36 tia vây. Răng vòm miệng với dải răng trên xương khẩu cái ở giữa và răng trên xương lá mía ở 2 bên. Chiều cao của cuống đuôi hơn 7% chiều dài chuẩn. Mặt lưng có màu nâu, mặt bụng có màu trắng.
Cá ba sa phân bố rộng ở Myanma, Java, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Cá sống chủ yếu ở những sông rộng nước chảy mạnh (Mai Đình Yên và ctv, 1992). Đây là đối tượng nuôi nước ngọt có sản lượng xuất khẩu lớn nhất hiện nay. Nghề nuôi cá basa trong bè rất phát triển trên thế giới dưới mô hình nuôi mang tính công nghiệp với mật độ cao, năng suất trung bình 130-150 kg/m³/năm. Hiện nay có khoảng 4.000 bè nuôi, sản xuất trên 40.000 tấn/năm. Cá sống đáy ăn tạp thiên về động vật. Tỉ lệ Li/L (chiều dài ruột/chiều dài toàn thân) nhỏ thay đổi theo loại thức ăn từ 1,78 trong tự nhiên đến 2,36 khi nuôi bè.
Cá giống thả nuôi trong bè cỡ 80-150 g/con, được nuôi với khẩu phần cho loài ăn tạp (50% cám, 30% rau, 20% cá và bột cá) sau 10-11 tháng đạt trọng lượng 800-1500 g/con (Phillip). Cá tăng trưởng nhanh trong tự nhiên, một năm tuổi 0,7 kg, hai năm tuổi 1,2 kg (Lý Kế Huy), kích cỡ tối đa khoảng gần 1 m, trọng lượng 15-18 kg.
Ở Việt Nam hai họ chính trong bộ cá trơn được nghiên cứu là họ Pangasiidae và Clariidae.
Họ Pangasiidae có 21 loài thuộc 2 giống: giống Pangasius có 19 loài và giống Helicophagus có 2 loài. Có một loài sống trong nước lợ, 2 loài sống ở biển. Tính ăn của các loài trong họ Pangasiidae thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển của cá thể.
Trong họ Pangasiidae 2 loài cá ba sa và cá tra là cá nuôi kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt trong hình thức nuôi tăng sản. Hằng năm nghề nuôi cá bè cung cấp hàng ngàn tấn cá ba sa cho thị trường trong nước, thêm vào đó là hàng ngàn tấn nguyên liệu cho thức ăn gia súc. Nếu trong năm 1993 sản lượng nuôi bè ở miền Nam Việt Nam ước lượng vào khoảng 17400 tấn hầu hết là từ các bè nuôi sông Mê Kông, thì chỉ riêng cá ba sa đã chiếm ¾ sản lượng này (13400 tấn). Trong năm 1996 sản lượng loài cá này khoảng 15000 tấn (Phillip Cacot).